Nhiều năm nay, một số người nêu câu hỏi: chuyến rời đất nước ngày 5.6.1911 của Nguyễn Tất Thành sang phương Tây là sự xê dịch tình cờ, ngẫu nhiên hay là sự lựa chọn có chủ đích mang tính khoa học, cách mạng? Bài viết này của chúng tôi xin góp phần tìm hiểu, lý giải câu hỏi nêu trên.
Nguyễn Tất Thành sinh ra ở vùng đất nằm ở hạ lưu Sông Lam của xứ Nghệ,
nơi có bề dày truyền thống yêu nước, văn hóa, lịch sử liệt oanh chống
giặc ngoại xâm; nơi con người thường xuyên phải đương đầu với giặc dã,
thiên tai, đói khổ; nơi có niềm tự hào “dân trọ trẹ”, “dân cá gỗ”…“Sớm
khoai, trưa khoai, tối khoai, khoai ba bữa/ Ông đỗ, cha đỗ, con đỗ, đỗ
cả nhà”. Vùng đất đó từng nổ ra cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan trong
gần 10 năm, từ năm 713 đến 722, làm chủ thành Tống Bình, quét sạch quân
xâm lược nhà Đường ra khỏi bờ cõi nước ta, được nhân dân tôn là Mai Hắc
Đế; là phên dậu thời Đinh, Lê, Lý; là đất “Cối Kê” đời Trần; đất Thang
Mộc đời Lê; đất Phượng Hoàng Trung Đô thời Nguyễn Huệ – Quang Trung;
vùng đất mà khi ấu thơ, Nguyễn Tất Thành cùng bao đứa trẻ khác uống từng
lời ru của bà, của mẹ: “Con ơi mẹ dặn câu này/ Chăm lo đèn sách cho tày
áo cơm/ Làm người đói sạch rách thơm/ Công danh phủi nhẹ, nước non phải
đền”…
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống nho học nguồn gốc nông dân, khi Nguyễn Tất Thành chào đời, khói lửa của phong trào Cần Vương
ngùn ngụt ngày nào đã dần lắng lại. Những cuộc đàm đạo văn chương, về
“quốc gia hữu sự” của thân phụ Anh với các vị túc nho như Phan Bội Châu,
Vương Thúc Quý, Trần Văn Lương, Đặng Thái Thân, Đặng Nguyên Cẩn, Bùi
Danh Trứ…; cảnh người dân bị sưu cao thuế nặng; cảnh người làng Sen bị
bắt đi phu Cửa Rào trong tiếng khóc than oai oán… đã nhen lên trong tâm
khảm Nguyễn Tất Thành cùng những người thân lòng yêu nước nồng nàn, chí
căm thù quân cướp nước và bè lũ bán nước. Cụ Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh
của Nguyễn Tất Thành đậu Phó bảng, được bổ làm quan rồi bị “cách quan”
vì luôn đau đáu: “Quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ hựu nô lệ” (quan
trường là nô lệ trong đám người nô lệ nên càng nô lệ hơn). Chị cả của
Nguyễn Tất Thành là Nguyễn Thị Thanh, còn gọi là Bạch Liên; người anh
trai là Nguyễn Sinh Khiêm, còn gọi là Tất Đạt, đều được học hành, dạy dỗ
chu đáo, có chữ có nghĩa, đều tham gia các hoạt động yêu nước, bị chính
quyền thực dân, phong kiến cầm tù và quản thúc nhiều năm, cả bà Thanh,
ông Khiêm đều hy sinh hạnh phúc riêng tư vì nghĩa lớn. Truyền thống vẻ
vang của quê hương và gia đình đã ảnh hưởng sâu sắc đến tuổi ấu thơ của
Nguyễn Tất Thành, đến việc hình thành nhân cách, tình cảm, tư tưởng và
sự lựa chọn con đường cứu nước sau này của Người.
Ở quê hương Nghệ An, có nhiều trí thức phong kiến trước Nguyễn Tất
Thành đã nuôi chí lớn, tìm đường ra nước ngoài du học và hoạt động yêu
nước. Nguyễn Trường Tộ, sinh năm 1828, quê làng Bùi Chu, huyện Hưng
Nguyên (cách làng Kim Liên của Nguyễn Tất Thành chưa đến 10 km), năm 30
tuổi được Giám mục Gauthier (tên phiên âm tiếng Việt là Ngô Gia Hậu) đưa
sang Hương Cảng, Singapore,
Ý và học tập ở Pháp gần 2 năm, về nước, ông nổi tiếng trong các lĩnh
vực kiến trúc, quy hoạch, xây dựng và cả chính trị, kinh tế, văn hóa,
giáo dục, quân sự, ngoại giao. Ông từng gửi hàng chục bản điều trần, đề
nghị canh tân đất nước lên triều đình nhà Nguyễn nhưng bị từ chối. Do
“thân phận hèn mọn mà dám nói việc cao xa”… “ở trong vòng của quân địch
mà lại ôm chí khác”… “bị nghi kị mà vẫn hiến dâng ý kiến”, nên “Nhất
thất túc, thành thiên cổ hận/ Tái hồi đầu, thị bách niên cơ” (tạm dịch:
Một kiếp sa chân, muôn kiếp hận/ Ngoảnh đầu cơ nghiệp ấy trăm năm). Cách
Kim Liên chưa đầy 20 km, ông Đặng Thúc Hứa từng sang Lào, Nhật Bản và
Thái Lan hoạt động yêu nước, được mệnh danh là “Cố Đi” vì đi nhiều, vận
động yêu nước nhiều, luôn tràn trề bầu máu nóng. Và ở rất gần Kim Liên,
khoảng 4 – 5 km là làng Đan Nhiệm, có Phan Bội Châu, bạn tâm giao của cụ
Nguyễn Sinh Sắc – một nhà yêu nước, nhà cách mạng, nhà văn hóa nổi
tiếng, trở thành lãnh tụ của phong trào Đông Du, Duy Tân. Năm 1925,
Nguyễn Ái Quốc – tên gọi sau này của Nguyễn Tất Thành, ca ngợi cụ Phan
là “Bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập, được hai mươi
triệu con người trong vòng nô lệ tôn sùng” (1). Tuy nhiên, sau bao nỗ
lực, tâm huyết, với 3 lần thay đổi chính kiến, cụ Phan tự nhận “trăm lần
thất bại mà không một thành công” (Phan Bội Châu niên biểu).
Trong câu chuyện với nhà thơ Xô Viết Ôxíp Manđenstan tại Liên Xô năm 1923, Nguyễn Ái Quốc
cho biết: “Vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên tôi được nghe những từ Pháp
“tự do”, “bình đẳng”, “bác ái”… thế là tôi muốn làm quen với văn minh
Pháp, tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy”. Năm 15 tuổi, Anh
cùng cha, mẹ và anh Khiêm vào Huế; năm 18 tuổi (1908), Anh tham gia các
cuộc biểu tình chống thuế của nông dân tại kinh đô Huế. Chính ở nơi này,
Anh thấy rõ nhất, đầy đủ và sâu sắc nhất mâu thuẫn dân tộc, mâu thuẫn
giai cấp, khát vọng độc lập, tự do của dân tộc và nhân dân mình.
Phan Bội Châu đi về phương Đông, nhưng một thực tế hiển nhiên và
hết sức phũ phàng là nước Nhật “đồng chủng” đang phản bội người da vàng,
xâm lược Trung Quốc, Triều Tiên, ra lệnh trục xuất chính ông và các du
học sinh Việt Nam yêu nước. Cải cách của Khang, Lương ở Trung Quốc thất
bại, cho thấy Trung Quốc không thể đi theo con đường Duy Tân của Nhật
Bản. Cách mạng Tân Hợi (1911) của Tôn Văn dẫu lật đổ được ngai vàng đế
chế, nhưng không lật đổ được quyền chiếm hữu ruộng đất và ách bóc lột
của địa chủ phong kiến, ách nô dịch của đế quốc tư bản nước ngoài.
Nguyễn Tất Thành rời Huế, vào Phan Thiết, rồi vào Sài Gòn để sang phương
Tây, như sau này Người kể lại “Tôi muốn đi ra nước ngoài xem nước Pháp
và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp
đồng bào ta”.
Mấy tháng sau khi Nguyễn Tất Thành, với tên mới Văn Ba, rời Sài
Gòn, cách mạng Tân Hợi nổ ra thắng lợi, nhưng Anh không quay lại Trung
Quốc. Anh vẫn kiên định sang Pháp, sang cái đất nước của những kẻ xâm
lược và cai trị dân tộc mình. Theo Anh, muốn đánh đuổi thực dân Pháp thì
phải biết nước Pháp là thế nào. Đó là một sự cân nhắc kỹ lưỡng, là sự
lựa chọn có chủ đích. Đó cũng là một sự đổi mới, không chỉ về hướng đi,
tầm nhìn mà cả về phương pháp nghiên cứu và hành động.
Tuy nhiên, việc một số người Việt Nam lúc đó sang phương Tây, sang
nước Pháp (kể cả chuyến đi của Nguyễn Tất Thành – Văn Ba), tự nó, chưa
hoàn toàn được coi là sự lựa chọn mang tính khoa học và cách mạng. Có
nhiều trí thức Việt Nam đương thời cũng sang Pháp, có người chỉ lo học
hành, kiếm sống, làm giàu, có vợ đẹp con khôn; có người vừa học chữ, vừa
tìm đường cứu nước, giúp dân. Luật sư, tiến sĩ Phan Văn Trường và Phó
bảng Phan Châu Trinh tiêu biểu cho nhóm thứ hai. Tuy nhiên, sống và hoạt
động ở Pháp nhiều năm, từng tiếp xúc với các lực lượng cánh tả Pháp,
vậy mà các ông vẫn không tìm được con đường đúng đắn để giải phóng dân
tộc, không đến được với chủ nghĩa Mác – Lê nin như Văn Ba – Nguyễn Ái
Quốc sau đó. Theo báo cáo của Trung ương Đảng Xã Hội Pháp thì chỉ tính
riêng năm 1913 đã có 7 người Việt Nam vào Đảng Xã hội Pháp, năm 1919 có
80 người Việt Nam tham gia đảng này, nhưng đến năm 1920 thì chỉ còn 20
người, duy nhất Nguyễn Ái Quốc (vào Đảng Xã hội Pháp năm 1918) trở thành
người cộng sản.
Trên con đường bôn ba tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc được hòa
mình trong phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động châu Âu, châu Phi, châu Mỹ, châu Úc, châu Á. Với bản tính thông
minh, mẫn tiệp, nhạy cảm với cái mới, trăn trở, khát khao tìm con đường
đúng đắn để cứu nước, cứu dân, Nguyễn Ái Quốc tiếp xúc, gạn lọc, đón
nhận những tư tưởng tiến bộ của văn hóa phương Tây: chủ nghĩa nhân văn
thời Phục hưng, chủ nghĩa duy lý thế kỷ Ánh sáng, tư tưởng dân chủ, tự
do, bình đẳng, bác ái của cách mạng Pháp, Anh, Mỹ… Ở Pháp, Nguyễn Ái
Quốc cùng Phan Châu Trinh,
Phan Văn Trường gửi Yêu sách của nhân dân An Nam đến Hội nghị Véc-xây
(1919); viết Bản án chế độ thực dân Pháp (1920); bỏ phiếu tán thành Quốc
tế thứ Ba (tức Quốc tế Cộng sản), trở thành một trong những sáng lập
viên của Đảng Cộng sản Pháp và đương nhiên, trở thành người cộng sản
Việt Nam đầu tiên (1920); sáng lập báo Người cùng khổ (Le Paria, 1922),
ngay bài viết cho số đầu tiên, Người tuyên bố sứ mệnh tờ báo là “giải
phóng con người”.
tin liên quan
46 năm ngày Bác Hồ đi xa: Với bất kể là ai, Người luôn ứng xử tinh tế
Trong cuộc đời hoạt động ngoại giao của cố Đại sứ Phan Văn Kim,
với 28 năm công tác ở nhiều cương vị, có đầy ắp những kỷ niệm khó quên
đối với các nhà lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước, đặc biệt là đối
với Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu.
Hơn 10 năm vừa vất vả lao động kiếm sống, vừa đau đáu tìm kiếm con
đường cứu nước, cứu dân, Văn Ba – Nguyễn Ái Quốc càng nhận thức rõ: chủ
nghĩa tư bản, bè lũ đế quốc, thực dân là những kẻ đã gây ra mọi áp bức,
bóc lột, đau khổ cho công nhân, nông dân và các tầng lớp khác ở cả thuộc
địa và ở ngay chính quốc. Theo Người: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu
nước, chứ chưa phải là chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lê-nin,
tin theo Quốc tế thứ Ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh vừa nghiên
cứu lý luận Mác – Lê-nin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu
được rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng
được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi
ách nô lệ”. Người khẳng định: “Muốn giải phóng dân tộc phải tự mình làm
lấy”. Người tin tưởng ở con đường đi của mình, tin tưởng ở sức mạnh của
nhân dân, của dân tộc, của nhân loại. Điều này, rất khác với quan điểm
của Phan Bội Châu, của Phan Chu Trinh; vượt qua những giáo lý Khổng,
Mạnh hẹp hòi, duy tâm; vượt qua sự hạn chế của chủ nghĩa yêu nước cũ của
các sĩ phu phong kiến và các nhà cách mạng có xu hướng dân chủ tư sản,
tiểu tư sản đương thời.
Từ chủ nghĩa yêu nước, Người đến với chủ nghĩa cộng sản khoa học,
chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Người bắt gặp, đón nhận Luận cương về các vấn đề
dân tộc và thuộc địa của V.I. Lê-nin không hề là sự may mắn ngẫu nhiên.
Đó là một tất yếu khách quan mang tính tự giác, khoa học và cách mạng.
Chính Phan Châu Trinh, năm 1922, trong một bức thư đề ngày 18 tháng 2
gửi từ Mác-xây cho Nguyễn Ái Quốc đang ở Paris, đã viết: “Thân tôi tựa
như chim lồng, cá chậu… Cảnh tôi như hoa sắp tàn, hiềm vì quốc phá gia
vong, mà hơi tàn cũng phải gào cho hả, may ra có tỉnh giấc hồn mê”. Cuối
thư, Cụ ví Nguyễn Ái Quốc “như cây đương lộc, nghị lực có thừa, dày
công học hành, lý thuyết tinh thông… không bao lâu nữa cái chủ nghĩa anh
tôn thờ (ý nói chủ nghĩa Mác – Lê-nin) sẽ thâm căn cố đế trong đám dân
tình chí sỹ nước ta”.
Điều mà cụ thân sinh Nguyễn Sinh Sắc cùng các chí sỹ yêu nước như
Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và cả dân tộc mong mỏi, theo bước chân
của Nguyễn Tất Thành – Văn Ba – Nguyễn Ái Quốc, qua thực tiễn đấu tranh
cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Á, Âu, Phi, Mỹ,
Úc; qua ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lê-Nin và cách mạng Tháng Mười Nga,
đã lan tỏa, “sâu rễ bền gốc” ở Việt Nam. Để có chuyến trở về nước lịch
sử, như một sự hẹn hò lịch sử của Nguyễn Ái Quốc ngày 28 tháng 1 năm
1941. Để có Ngày Quốc khánh 2 tháng 9 năm 1945 với tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ
đại “Người có tầm nhìn cao rộng và sâu xa, xuyên qua lịch sử, bao quát
không gian, thấy sáng tương lai, mở ra những bước ngoặt vĩ đại, đưa dân
tộc Việt Nam từ cảnh nô lệ lầm than ra ánh sáng độc lập tự do, từ một
đất nước ít ai biết đến trở thành người chiến sĩ tiêu biểu cho cả loài
người tiến bộ yêu mến và khâm phục. Đó là tầm nhìn mang ý nghĩa chiến
lược, nhìn thấy con đường cứu nước là con đường cách mạng vô sản, độc
lập dân tộc gặp gỡ và hòa nhập với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước
gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản, cách mạng giải phóng dân tộc và
cách mạng xã hội chủ nghĩa quyện vào nhau trong không gian và thời gian,
ở một nước và trên toàn thế giới”.
Nguyễn Thế Kỷ
PGS.TS, Ủy viên T.Ư Đảng, Tổng giám đốc Đài tiếng nói Việt Nam