Một ngôi chùa độc đáo và bảo vật Xứ Đông
Ban đầu quy mô ngôi chùa nhỏ bé, không tiếng
tăm gì. Đến năm 1691, thời vua Lê Hy Tông, chùa An Ninh được một vị sư
gọi là Tổ Rau trụ trì. Sở dĩ có pháp hiệu vậy vì ông thuộc Thiền phái
Trúc Lâm, tu theo lối tịch cốc, một ngày chỉ ăn 1 bìa đậu phụ và 2 mớ
rau muống vào chính ngọ. Điều kỳ lạ là ông vẫn khỏe mạnh dù hằng ngày
giảng kinh thuyết pháp.
cung để hỏi chuyện. Tổ Rau cứ thực mà tâu bày. Vua bán tín bán nghi bèn
cho thợ đánh một chiếc vòng vàng vừa khít cổ tay của Tổ Rau có nhã ý
thử, rồi lưu Tổ Rau ở lại trong cung giảng Phật pháp. Mỗi ngày nhà vua
cho tăng khẩu phần ăn của Tổ Rau lên 2 bìa đậu, 4 mớ rau muống.
tốt, hồng hào ra. Cổ tay đeo vòng vàng đã chật cứng. Lại thấy Tổ Rau
làu thông kinh Phật, nhà vua lấy làm cảm phục bèn phong chức Tăng Lục
Thiền Gia và bốn chữ An Ninh Pháp Tràng, cho phép được về quê mở trường
dạy.
thì cung tiến tượng Phật. Từ đó, An Ninh Pháp Tràng trở thành trường
truyền dạy Phật pháp nổi tiếng của xứ Đông và cả nước.
tục cho sửa thượng điện. Các năm 1740 và 1809, chùa được tu sửa và tôn
tạo khá nhiều công trình. Thế kỷ XIX – XX, chùa được trùng tu lớn tới
100 gian nên còn được gọi tên chùa Trăm gian. Qua thời gian và chiến
tranh tàn phá, chùa bị xuống cấp nên không còn giữ đủ 100 gian.
tôn tạo lại. Đến nay toàn bộ chùa có tổng cộng 70 gian. Với giá trị quan
trọng, chùa Trăm gian đã được xếp hạng di tích cấp quốc gia năm 1990.
tượng Phật có niên đại thời Lê và thời Nguyễn, nhiều đại tự, câu đối,
bia đá cùng các cổ vật có chất liệu gỗ, gốm, đồng. Đáng chú ý là pho
tượng Phật A Di Đà cao khoảng 3m trên bệ đá hơn 2m nằm trên cùng thượng
điện. Phía sau bệ đá có vẽ bức tranh mặt trước cảnh chùa với gác trống,
tháp chuông, cầu đá, tam quan. Chiếc vòng vàng được vua Lê Hy Tông ban
Tổ Rau đã góp để đúc pho tượng này. Chính vì vậy mà pho tượng Phật A Di
Đà này được cung kính đặt trên cùng thượng điện thay vì ba pho Tam thế
như các ngôi chùa khác.
có chiếc chuông cổ đúc vào năm Thành Thái thứ 2 (1890), được treo ở tam
quan chùa. Tam quan cũng là một công trình cổ kính với 2 tầng mái, các
đầu đao uốn cong, tạo sự thanh thoát, bay bổng. Phần cột tam quan được
kết hợp giữa kiến trúc phương Đông và kiến trúc Pháp tạo sự lạ mắt do
nhà sư pháp hiệu Đông Kinh Nghĩa Thục (một nhân sĩ của phong trào Đông
Kinh Nghĩa Thục bị Pháp truy sát về đây tu) xây dựng vào thời vua Bảo
Đại.
có 9 ngôi được xây dựng vào thời Hậu Lê và thời Nguyễn. Đây là nơi an
nghỉ của các vị tổ sư đã từng trụ trì tại chùa. Hai ngôi tháp mộ của Tổ
Rau và Viên Giác được xây bằng gạch Cậy cổ vẫn nguyên vẹn.
bản đã có niên đại hàng trăm tuổi. Số mộc bản này hiện được lưu giữ
trong phòng khách chùa trên hai giá gỗ ba tầng.
thấy sự tinh xảo trên từng nét khắc. Các mộc bản được làm bằng gỗ có
kích cỡ khoảng 30x40cm, độ dày khoảng 1,5 cm, hai mặt được khắc nổi chữ
Nho. Mỗi mặt tương đương với 2 trang in.
Nho còn có các bùa, chú. Trên các mộc bản đều hằn lên màu đen của mực,
điều đó chứng tỏ chúng đã từng được sử dụng để in ấn. Do thời gian, chữ
trên một số mộc bản đã bị mòn, vỡ.
kinh Phật, được nhà sư Viên Giác, tổ đời thứ 2 của chùa cho khắc vào
thời vua Minh Mạng (1791- 1841) để giảng đạo. Nhà sư Viên Giác viết lời
tựa, ông Phạm Thanh San và ông Phạm Khắc Thọ là hai thợ khắc chữ nổi
tiếng của xã Thanh Lâm (Nam Sách) thực hiện.
kg thóc. Bộ mộc bản kinh này hai người thợ phải làm ròng rã hàng năm
trời mới hoàn thành. Sau khi hoàn thành, bộ mộc bản được dùng để in kinh
sách phục vụ cho công việc giảng dạy Phật pháp của chùa. Khoảng những
năm 60-70 của thế kỷ 20, chùa còn giữ được hàng trăm đầu sách kinh tự in
ấn. Sau số sách này được chuyển cho ngành văn hóa lưu giữ. Đổi lại,
phía xã được nhận 3.000 đầu sách quốc ngữ bổ sung cho thư viện.
tương đương độ tuổi của các mộc bản triều Nguyễn. Trải qua thời gian,
đến nay một số mộc bản trong chùa đã mất, hư hỏng. Hiện nay, chùa còn
lưu giữ được trọn vẹn 5 bộ mộc bản kinh Phật với khoảng 700 bản khắc là:
Giới đàm tăng (dành cho các nhà sư lên chức thụ giới), Giới đàm ni
(dành cho các ni lên chức thụ giới), Dược sư đề cương (sách thuốc); bộ
Nhật tụng (khóa lễ, khóa tụng hằng ngày của chùa trăm gian được nhà sư
Viên Tịch, tổ đời thứ 3 cho khắc hiệu đính lại các bản in trước); đặc
biệt là bộ Khóa Hư Lục, pho sách Phật giáo của Việt Nam do Trần Thái
Tông (1218-1277) biên soạn. Chỉ ngần ấy thông tin cũng đủ xếp mộc bản
chùa Trăm gian vào hàng bảo vật của xứ Đông.
Trăm gian là một danh thắng có một không hai của xứ Đông. Tuy nhiên do
công tác quảng bá còn hạn chế, đường xá chưa thuận tiện, nên giá trị du
lịch của chốn pháp tràng xưa chưa được khai thác hiệu quả.